Quan điểm Đường_chín_đoạn

Trung Quốc

Tại diễn đàn an ninh Đối thoại Shangri-LaSingapore năm 2014, Phó Tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc Vương Quán Trung (Wang Guanzhong) cho biết bản đồ với "Đường lưỡi bò" phản ánh 2.000 năm lịch sử Trung Quốc, và do đó nó có trước Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển. Từ đó, ông Vương cho rằng khu vực này không phù hợp để áp dụng Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển trong khi công ước này ra đời để áp dụng chung cho việc giải quyết mọi tranh chấp mà không hề nêu ra ngoại lệ.[16]

Hoa Kỳ

Theo phân tích của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ số 143 ra ngày 5 tháng 12 năm 2014[17] thì đường chín đoạn của Hoa lục có nhiều vấn đề không hợp lệ theo công pháp quốc tế nên không có cơ sở pháp lý. Thứ nhất bản đồ công bố năm 1947 và bản đồ năm 2009 không ăn khớp với nhau vì bất nhất ở vị trí lằn ranh. Ví dụ là lằn ranh số 2 theo bản đồ dẫn năm 2009 nhích sát miền Trung Việt Nam thêm 45 hải lý so với bản đồ dẫn năm 1947. Vị trí lằn ranh trên những tấm bản đồ năm 19842013 cũng khác nhau, không đích xác là đâu là biên giới cả.

Thứ nhì, lằn ranh không lấy trung tuyến giữa hải đảo và đường cơ sở đất liền mà lại lấn vào vùng đất liền, trái với Công ước biển (tiếng Anh: Law of the Sea, LOS). Ví dụ như lằn ranh số một cách đảo Tri Tôn 84 hải lý nhưng chỉ cách Cù Lao Ré có 36 hải lý.

Chiếu theo công pháp quốc tế thì hải đảo là ụ đất phải nhô lên khỏi mặt biển khi thủy triều ở mực nước cao nhất. Nếu đạt đúng nghĩa là đảo thì những địa thể này chỉ có lãnh hải 12 hải lý mà thôi; trong khi đó vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của quốc gia duyên hải bao phủ 200 hải lý. Những mỏm đá ngầm, rạn san hô, bãi cạn và đảo nhân tạo mà Hoa lục đòi sở hữu đều không đạt tiêu chuẩn hải đảo thì không có quyền thiết lập lãnh hải.

Cũng chiếu theo công pháp quốc tế, nếu thiết lập ranh giới quốc tế thì phải có đồng thuận song phương. Vì vùng Biển Đông còn ở trong tình trạng tranh chấp nên không đạt chuẩn mực biên giới quốc tế.

Còn về vùng biển lịch sử thì tiêu chuẩn này thường áp dụng với những vịnh biển hay vụng nước sát bờ như trường hợp Bột Hải chứ không thể bao phủ một vùng biển khơi. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ khi đem đối chiếu tuyên bố "đường chín đoạn" của Hoa lục và công pháp quốc tế đã kết luận rằng những đòi hỏi chủ quyền của Bắc Kinh hoàn toàn không hội đủ điều kiện pháp lý quốc tế.[18]

Việt Nam

Việt Nam tuyên bố chủ quyền tại vùng biển theo công pháp quốc tế, với 2 quần đảo Hoàng SaTrường Sa. Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử về chủ quyền của vùng biển và 2 quần đảo này.[cần dẫn nguồn]

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ chủ quyền biển, đảo được thể hiện tập trung trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, nhất là Nghị quyết 03/NQ-TƯ ngày 6-5-1993 của Bộ Chính trị (Khóa VII) về "Một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt"; Chỉ thị 20-CT/TƯ ngày 22- 9-1997 của Bộ Chính trị (Khóa VIII) về"Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng CNH, HĐH"; Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa X) về "Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020", gồm những nội dung cơ bản sau:[cần dẫn nguồn]

- Biển, đảo là bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo là nhiệm vụ trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.

- Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, giữ vững độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán toàn vẹn vùng biển của Tổ quốc.

- Kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp ngoại giao, pháp lý, kinh tế, quốc phòng - an ninh để quản lý, bảo vệ vùng biển của Tổ quốc.

- Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển gắn liền với tăng cường quốc phòng- an ninh trên biển; tập trung xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc trên biển, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, trước hết là lực lượng hải quân, cảnh sát biển, bộ đội biên phòng và dân quân, tự vệ biển đủ sức làm nòng cốt trong nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền biển quốc gia.

- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp nguồn lực trong nước với nguồn lực từ bên ngoài, thông qua hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế; trong đó, nguồn lực trong nước là nhân tố quyết định, thực hiện vừa hợp tác vừa đấu tranh, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên các vùng biển, đảo để phát triển kinh tế biển và bảo vệ an ninh, chủ quyền quốc gia trên biển.

- Đối với các tranh chấp trên Biển Đông, chủ trương nhất quán của Việt Nam là các bên tôn trọng nguyên trạng, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, giải quyết mâu thuẫn thông qua thương lượng hòa bình trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước về Luật biển năm 1982 của Liên Hiệp Quốc, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), nhằm tìm kiếm một giải pháp cơ bản và lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của các bên, tiến tới xây dựng Biển Đông thành vùng biển hòa bình, hợp tác và phát triển.

Các nước Đông Nam Á

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đường_chín_đoạn http://www.legaldaily.com.cn/zmbm/content/2011-12/... http://www.bbc.com/vietnamese/world/2016/07/160712... http://www.bbc.com/vietnamese/world/2016/07/160718... http://v.huanqiu.com/history/201107/20110701221442... http://news.ifeng.com/mainland/special/nanhaizheng... http://news.xinhuanet.com/theory/2011-12/15/c_1224... http://www.state.gov/documents/organization/234936... http://www.state.gov/e/oes/ocns/opa/c16065.htm http://vnexpress.net/gl/the-gioi/2009/03/3ba0cbba/ http://csis.org/publication/critical-questions-chi...